Thứ Tư, 28 tháng 12, 2011

ĐỌC VÀ SUY NGẪM

ĐI TÌM BÀI CA DAO “MƯỜI QUẢ TRỨNG”
MỘT BÀI CA DAO ĐẶC SẮC CỦA BÌNH TRỊ THIÊN
                                              
Bài ca dao  Mười quả trứng từng nằm trong tập hợp Những câu hát than thân  trích trong sách  văn học 10 (Sách chưa cải cách) ghi rỏ là dân ca Bình Trị Thiên. Đây là một niềm vinh dự lớn của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị , Thừa Thiên Huế.    
Bài in trong sách giáo khoa năm 1992 và 2000 khoa như sau:
Tháng giêng, tháng hai,
Tháng ba, tháng bốn,
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Còn ba trứng nở ra ba con:
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
    * Đọc đến cuối bài ca dao chắc sẻ có nhiều người phải suy nghĩ về địa danh “ Chợ Kẻ Diên” ngày nay được đổi tên thành chợ Diên Sanh ở xã Hải Thọ Huyện Hải Lăng Tỉnh Quảng Trị.
Vậy, bài ca dao được xuất xứ từ đâu?

I. TÌM HIỂU VỀ MẠN CỰC NAM CỦA HUYỆN HẢI LĂNG:
    
1.    Vị Trí địa lý :
Về mạn cực nam của huyện Hải lăng, tỉnh Quảng Trị, men dòng Ô lâu có các làng: làng Mỹ Chánh thuộc Xã Hải Chánh; Lương Điền, Hà Lộc thuộc xã Hải Sơn; Hà Lỗ, Câu Nhi, Văn Quĩ thuộc xã Hải Tân; Hưng Nhơn, An Thơ và Phú Kinh thuộc xã Hải Hòa. Vùng đất này đã đóng góp cho đất nước Việt Nam nhiều nhân tài vừa văn vừa võ.
2. Hệ thống sông:
     Các làng trên đều có nhánh từ sông chính (Ô lâu) đổ ra đồng ruộng thông thẳng đến Diên Sanh (Kẻ Diên), thủ phủ của huyện Hải Lăng. Hồi đó việc đi lại chủ yếu là đường thủy. Các làng hạ lưu đi chợ Kẻ Diên bằng ghe thuyền, sáng chống đi chợ, trưa về.
    3. Kinh tế:
     Quê ta là vùng trũng (8 đến 10 độ so với mặt biển), độc canh lúa nước, hằng năm bị hai con nước đe dọa. Lũ Tiểu mãn tháng tư âm lịch và lũ thu đông kéo dài từ tháng tám đến hết tháng mười. Câu ca “Ông tha mà bà chẳng tha/ làm cho con nước hai ba tháng mười” đã nói lên cơn lũ dai dẳng và khốc liệt ấy.
     Là vựa lúa của huyện Hải Lăng nhưng trước đây chưa có hệ thống tưới tiêu nên có làm mà không có ăn. Đầu tháng tư lúa bắt đầu chín, lũ Tiểu mãn đe dọa. Lúa đang xanh cũng gặt (Xanh nhà hơn già đồng), gặt không kịp nước cuốn trôi. Thế là đi đứt vụ mùa thu hoạch chính. Quê tôi không có đất trồng hoa màu nên rau không có mà khoai sắn cũng không. Người dân thật vô cùng khốn khổ. Sau tháng ba, tháng tư quả là tháng khốn tháng nạn.
4. Sự kiện tiêu biểu của cụm Ô Lâu:
 Năm 1999 cơn đại hồng thủy đã làm chìm tàn bộ nhà cửa của người dân. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu về thăm các xã trong đó có xã  Hải Hòa trong trận lũ khủng khiếp, cũng từ đó nhân dân cả nước và bạn bè Quốc tế biết đến mảnh đất vùng sâu này.
II. TÌM HIỂU XUẤT XỨ BÀI CA DAO:
                      Đi sâu tìm xuất xứ bài ca dao, tôi chú ý bốn từ “RA CHỢ KẺ DIÊN” thông thường, đến một nơi nào đó người ta dùng từ: đi, về, Đi đâu, về đâu. Quê Quảng Trị, quê ta còn dùng nhiều từ khác: vô, ra, lên, xuống, qua, lại ví như vô Sài gòn, ra Hà nội, lên rừng, xuống biển, qua chợ (cách sông)
                      Ta xem chợ Kẻ Diên là điểm đến là trục tọa độ để xét. Nội hạt huyện Hải Lăng: Hải Thượng xuống chợ, Hải Khê lên chợ, Hải Quy vào chợ và các xã từ phía cực nam Hài Lăng là ra chợ. Thế “ra chợ Kẻ Diên” phải chăng là cội nguồn xuất xứ bài ca dao này.
                      Vậy, theo tôi bài ca dao này có xuất xứ từ Cụm Ô Lâu của Huyện Hải Lăng.
                      III. PHÂN TÍCH BÀI CA DAO:
Có lẽ nội dung của bài ca dao đã gây ra một tác động tâm lý tức thời bởi năng lượng truyền cảm của nó. Vừa đọc lên, đã thấy lòng quặn thắt, bởi một nỗi khổ cực khốn cùng. Đúng là nỗi khổ cực khốn cùng của người nông dân Bình Trị Thiên nói chunh và của người dân Cụm Ô lâu Hải Lăng nói riêng đã được diễn tả, nhưng đồng thời bài dân ca cũng nói lên niềm hy vọng mong manh của họ.
Dựa vào việc trình bày cảnh ngộ của người nông dân chăm sóc mười quả trứng, bài dân ca đã cho ta một hình dung toàn
cảnh về một cuộc đời khốn khổ.
Mở đầu:
Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn…,
Ta gặp một phép kể và một cách tính quen thuộc của người nông dân: tính tháng, tình thời vụ. Bởi vì người nông dân sống bằng thời vụ; cũng như thời vụ và những công việc đồng áng chi phối toàn bộ cuộc sống của họ. Từ tháng giêng đến tháng tư nhà nông chưa có thóc, chưa đến thì gặt lúa, chưa đến mùa thu gặt. Mùa thu gặt phải chờ đến Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng năm như vậy là coi như tháng giáp hạt, tháng đói. Và đó cũng chính là lý do mà người nông dân này vừa kể vừa kêu khổ:
tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn.
Khốn là khốn đốn, nạn – là vận nạn, chỉ vận nạn khốn quẫn, khốn cùng, như đói kém, túng quẫn, thiếu thốn. Biết làm gì khi vụ mùa chưa tới? Sự chờ đợi đối với người nông dân dài dằng dặc, nghĩa là từ sau khi gieo mạ và chờ cây lúa lên sau tháng giêng hai.
Người dân ta có sáng kiến, như tạo được một cơ hội:
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái.
Đi vay đi dạm tức là phải chạy vạy, vay mượn vất vả.
Nhưng bù lại:
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng.
Mười cái trứng – đó là tất cả vồn liếng, là sự sinh sôi, nảy nở của ngày mai. Điều đó vừa bé bỏng, vừa lớn lao một cách khắc nghiệt vì nó chứa đựng toàn bộ niềm hy vọng. Có thể hình dung ra tâm trạng thấp thỏm của người nông dân khi anh ta chờ đợi và nhặt lên từng quả trứng, thận trọng soi nó dưới ánh nắng mặt trời và cay đắng nhận thấy:
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung
Quả là một con số dài dằng dặc và một kết luận đau xót. Tưởng chừng mỗi tiếng ung buông ra như kèm với tiếng thở dài nặng trĩu đầy thất vọng!
Còn ba trứng nở ra ba con.
Bài ca dao không mô tả thời gian và việc chăm sóc gà con, những vẫn cho người dân nghe một cảm nhận về sự chuyển vận của thời gian qua lời kể và qua những chăm chú thường trực của họ. Họ vẫn đếm và vẫn tính, trên cái Không có gì. Bởi số phận hiện ra như một sự trắng tay:
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi
Lời ca nghẹn lại như một tiếng khóc than. Ta cảm thấy như là có một sự ngẫm nghĩ, sự suy ngẫm đau đớn trước cái gì điêu tàn, tan thương và mất mát. Và đó chính là sự suy ngẫm trước hiện thực và trước số phận bạc bẽo, là sự trực diện với đau khổ, với sự khô cằn, tan vỡ, và với cái nghèo không lối thoát.Hoàn tất một sự kể khổ như vậy thực là độc đáo.
Thế nhưng ở hai câu cuối của bài ca dao, lời an ủi và niềm hy vọng lại cất lên. Và nó cất lên giữa một sự điêu tàn, sự tang thương bởi những mảnh còn sót lại của những con gà non bị diều tha, quạ bắt…:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da: Lông mọc, còn chồi:  nảy cây.
Chớ than – đừng than thở; là một lời khuyên nhủ, lời an ủi, và cũng là một cách kìm nén nỗi đau khổ ở trong lòng, để nỗi đau khổ trở nên âm thầm, tạo thành một nghị lực và một sự chịu đựng, để sống và hy vọng. Niềm hy vọng ấy là từ những gì kế tục, sống lại và đồng nhất với khởi sự của một sự sống: Còn da: Lông mọc, còn chồi:  nảy cây.
Bài ca dao Bình – Trị – Thiên này dường như là được hát trên những vùng đất hoang vu đầy nắng, gió và cát. Nó hát về những nỗi khổ dài dằng dặc quanh năm suốt tháng, gửi gắm vào đấy nỗi bi thương và hát lên để tỏ bày, để thông cảm và để thương nhau, bởi vì sự thông cảm và thương nhau cũng là một nguồn sống. Đặc biệt là niềm hy vọng. Niềm hy vọng ở đây, là cái còn lại cuối cùng, sau nỗi khổ đau.và lời khẩn cầu cho sự sống lại đâm chồi nảy mầm.Và lời khẩn cầu cũng như niềm hy vọng ấy được ca hát lên, tựa như một ngọn gió hoang vu cất lên từ mặt đất cằn khô, bao la đầy cát trắng.
Có một điều lạ lùng, rằng cái tiếng hát bi thương, buồn khổ này dường như cứ đeo đẳng và đi theo ta mãi, ám ảnh và làm cho ai đã nghe nó một lần cũng không thể quên, dai dẳng như là một nỗi nhớ đến dĩ vãng của một thời, của một người, của một vùng đất, một xứ sở, ngay cả khi ta đã sung sướng và giàu có. Sự không quên này sẽ giống như một ký ức, và nó đích thực là một tình yêu đối với quê hương, đối với con người, đối với nhân dân.
"Mười quả trứng" là bài ca dao thể hiện sâu sắc Tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Mặc dù tài sản duy nhất "mười quả trứng" cuối cùng lại trở về là con số 0 thậm chí còn âm vì chủ sở hữu của nó phải "đi vay, đi dạm, ...". Song người nông dân Việt Nam vẫn tin tưởng, vẫn hy vọng vào tương lai tươi sáng.
                        Xin mời bạn bè đọc vui và cùng trao đổi.

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

DÙ AI ĐI NGƯỢC VỀ XUÔI, NHỚ VỀ QUẢNG TRỊ MẸ RU THUỞ NÀO!!!


Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy. 

Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:

I / Tục ngữ:
A. Về thời tiết và sản xuất
Cò ăn ruộng sâu thì nắng
Cò ăn ruộng cạn thì mưa
Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn
Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ
Đập đất nhỏ, luống đánh to
Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào
Đói thì ăn môn ăn khoai
Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng
Trăng rằm đã to lại tròn
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi
Xứ Cùa đất đỏ ba dan
Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu
B. Về đời sống xã hội
Liệu cơm mà gắp mắm ra
Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô
Khun ba năm không ai biết
Dại một giờ bạn hay
Đi buôn bữa lỗ bữa lời
Ra câu giữa vời bữa có bữa không
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Khoai lang cổ bở cổ trân
Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi
Bỏ công múc nước đường xa
Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi
Sui gia là bà con tiên
Ăn ở không hiền là bà con quỷ
II / Câu đố:
Hai người ở hai buồng
Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung
Đêm về sập cửa thả chông
Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
                                    (Hai con mắt)
Gặp nhau đây bất luận đêm ngày
Lật ra xem thử lỗ này ở đâu
Đâm vô thì rút ra mau
Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng
Rút ra máu chảy tràn lan
Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
                                          (Đạp gai)
Họ hàng chỉ sống trên non
Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
Không may lửa dậy khói bay
Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
                                               (Tổ ong bị đốt)
Cây xanh mà lá cũng xanh
Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
Một mai lửa đỏ thành than
Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
                                                   (Cây thuốc lá)
III/ Vè:
Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục .
A. Vè Ba Lòng:
Thanh trời rạng thấy núi xây
Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương
Trà Trì, Văn Vận hai phường
Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa
Tháng năm bắp đã tới mùa
Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên
Đò thì mắm nục, mắm nêm
Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
Đò thì gạo, nếp, trứng, đường
Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
Đò thì ghè, đục, ang, âu
Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
Buôn chi thì nỏ có lời
Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
Buôn chi than, vải lụa thao
Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao
B. Vè thằng nhác
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Hỡi xóm hỡi làng
Nghe vè thằng nhác
C. Vè con gái
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu dấu
Muốn ăn khoai nấu
Muốn ăn khoai nướng
Muốn ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ mồm hả ra
IV/ Đồng dao
Bập bong bong tay mô khôông tay mô có
Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông
Chị lấy dôông em ở quá
Chị ăn cá em mút xương
Chị đường em mật
Chị vật em coi
Chị voi em ngựa
Chị bựa em bèn
Chị kèn em trống
Chị trống em mái
Chị méo em tròn
Hai hòn về chị
Rầm rà rầm rì
Xây lúa Đồng Nai
Cơm gạo phần ngài
Tấm cám phần tui
Lờ đệng cháy nhà
Bà già chạy chựa
Cháy nửa bồ thóc
Lóc cóc chạy về
Ông Đề hỏi răng
Cu Nhăng cắn nhện
Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo
V/ Câu đối
Văn vận tuột quần Văn vận vận
Bích La đau bụng Bích La la
Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ
Bích giang không nón, Bích giang giang
Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp
Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao
VI/ Ca dao
Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở
A. Quan hệ gia đình
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng
Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa
Chị em như chuối nhiều tàu
Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây kia ăn quả ai trồng
Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu
Cơ đồ gầy dựng bấy lâu
Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
Mộ phần gìn giữ hôm mai
Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường
Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương
Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi
Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha chết, gót con đen sì
Mẹ già ham việc tiếc công
Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi
Mãn rồi cai đội hồi hương
Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng
Ra đi bố mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
B. Quan hệ xã hội
Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình
Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương
Bạn về không có chi đưa
Môn khoai đang dại, mít dừa đang non
Cây cao bóng mát chẳng ngồi
Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim
Cây khô xuống nước cũng khô
Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo
Con quan lấy đứa mần than
Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo
C . Quan hệ lứa đôi
Trăng lên tới đó rồi tề
Nói chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm vàng đậu đọt cau tơ
Kiếm cái nơi mô nương tựa
Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng
Đi mô cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo
Cam chua, quýt ngọt… bồng the
Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành
Xa anh có bấy nhiêu ngày
Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm
Hai ta mót củi một cồn
Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa
Em đương vút nếp hong xôi
Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm
Ai hay nông nổi mần ri
Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời
Anh đã có vợ thời thôi
Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều
Anh về đừng có ngó lui
Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương
Anh đưa em lên đến ngã tư sòng
Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ
Được nên chồng nên vợ thì hay
Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê
VI. Hò:
Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:
A. Hò ru:
Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:
Khi con thức Mẹ cho con bú
Khi con lú Mẹ lại ru hời
Nuôi con cực lm con ơi
Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng
Để lấp biển vá trời như ai !
Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử
Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
Mai đây bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa hạ
Biết mấy thu đợi chờ
Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm
Lại ngọn gió lồng em che
Ru hời ru hỡi là ru
Bên cạn thời chống bên su thời chèo
Xây thành đp lũy trên non
Cm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
Một mai lửa dậy khói bay
Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai
Ơn cha ba năm báo bổ
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
Lấy chi trả nghĩa sinh thành
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ
B. Hò đối đáp:
Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.
1) Hò ân tình
Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:
Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
Vô đây phân giải đôi điều cho vui
Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:
Chào lê chào lựu chào đào
Ai xa chào trước ai gần chào sau
Chào bên nam mất lòng bên nữ
Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên
Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào
Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen
Ra đây ta hò hát cho quen
Rạng ngày ai về nhà nấy…
Khá thể ngọn đèn hai tim
Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao
                          Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

Nam: Con mắt em sắc hơn dao
Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời
Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
Trầu cả chợ răng gọi trầu không
Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi
Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
Cây không đi học răng kêu cây thông
Anh đã đối đặng em theo chồng về mau
Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè
Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi
Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu
Nữ: Em như bông sen trong hồ
Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em
Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên
Nữ: Em đây như con rồng vàng
Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời
Nam: Anh đây có phép thần thông
Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi
Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng
Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh
Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn
Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi
Kiến bò cột sắt sao mòn
Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây
Kiến bò cột sắt thành đàn
Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây
Thương thay các cậu chự bò
Cái lưng môốc thếc thếc
Bộ giò đen thùi thui
Em về dở sách ra dò
Cha em lúc trước cũng chự bò như anh
Trai không vợ như chợ không đình
Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu
Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc
Chợ không đình tại thợ mộc suy vi
Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng
2) Hò đâm bắt:
Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:

Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
Anh ra ba em cũng ra
Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi
Một hôm khác tại Gia Đẳng:
Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi
Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè
Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng
Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
Liệu bề đát được thì đan
Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười
Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô
Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
Ra đường lại gặp anh Ba
Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!
Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:
Anh ở trung nớ mới ra bựa qua
Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!
Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
Đóng bức đố xéo đã ra chi tài
Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra
Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:
Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng
Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn
Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:
Em mua cho anh cái dù tám cóng
Dưới có mốc đồng
Răng anh không đội
Để đầu không rứa hè
Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:
Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng
Em đem về cho cha em đội cho nội em che
Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi
Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:

Tiếng đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ
Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.