Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

CHUYỆN LÀNG CHUYỆN TẾT CỦA ÔNG NGUYỄN NHƯ XUÂN

Làng Hưng nhơn có tự bao giờ

    Theo sử sách nước ta, trước năm 1975 nhân dân phía Bắc vào Nam có hai đợt lớn: Một là năm 1306 và hai là năm 1558.
    Năm 1306, khi vua Chiêm thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý (nay là Quảng Trị và Thừa Thiên Huế) làm lễ vật dẫn cưới Huyền Trân Công chúa (con vua Trần Nhân Tông) thì nhân dân Thanh hoá, Nghệ an ồ ạt vào tiếp nhận. Đến năm 1558, khi Nguyễn Hoàng, tránh thế kìm kẹp của Trịnh Kiểm đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá (Quảng trị-TTH) nhân dân Thanh hoá Nghệ an lại rầm rộ đi theo. Dĩ nhiên các năm sau đó nhân dân vẫn rải rác vào.
    Tôi được đọc lời tựa trong tộc phã họ Nguyễn (Đức, Hữu, Như) họ xếp thứ tự khai canh thứ hai trong sáu họ của Làng. Lời tựa nói rõ: Ba ngài từ đất Hoan châu - Nghệ an theo  Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào năm 1558 (Mậu Tý).
    Tôi lại được đọc một cuốn sách nhan đề là Ô châu cận lục ghi chép đề cập đến nhiều phương diện liên quan như núi sông, sản vật, phong tục, thành quách, danh lam. phú thuế, quan chức, nhân vật…của dải đất miền trung đặc biệt là hai châu Ô, Lý.
    Ô châu cận lục do Dương Văn An, Thượng thư triều Mạc Phúc Nguyên (1547-1553) biên soạn. Dương Văn An người xã Tuy lộc, huyện Lệ thuỷ, tỉnh Quảng bình. Năm 31 tuổi  ông  đỗ  Đồng  Tiến   khoa  Đinh  Mùi – 1547. Năm 1553 ông dựa vào hai tập sách của hai bạn đòng hương (sử không ghi tên hai vị này -NTX) ông thu thập thêm những điều tai nghe mắt thấy, rồi bổ sung, hiệu đính, nhuận sắc… và lưu truyền lại ngày nay.
    Ô châu cận lục gồm 6 quyển trong đó quyển ba nói về phân chia đơn vị hành chính. Hai châu Ô, Lý này (gọi Trị, Thiên cho dễ nhớ) chia ra 6 phủ huyện. Huyện Hải lăng là huyên duy nhất không thay đổi tên. Hải lăng có 49 xã gồm An thư (An thơ), Vĩnh hưng (Hưng nhơn) Văn quĩ, Câu nhi, Hà lộ (Hà lỗ)… cho đến xã thứ 49.
   Một vấn đề tôi còn phân vân là trước 1553 đã có làng Hưng nhơn thế thì ba ngài lập họ Nguyễn không phải theo Nguyễn Hoàng vào năm 1558 được. Đề nghị bà con ai có thêm tín sử xin mách bảo.
                                                     Xin cám ơn

    Kì sau :   Những tìm hiểu và suy nghĩ về
Tầm vóc làng Hưng nhơn
Nguyễn Thanh Xuân
Sinh 06-6-1929
Hưng nhơn- Hải hoà Hải lăng Qu ảng trị
Thường trú: 487/2 đường Cổ nhuế Từ liêm Hà nội
Đt : (04) 62650037---0986 465 34



Bài viết dự kiến phát biểu trong hội thảo
“TẦM VÓC LÀNG HƯNG NHƠN”
    Những tìm hiểu và suy nghĩ về Tầm vóc làng Hưng nhơn
    Tôi xin tham gia hai vấn đề:
      1, Vóc dáng làng (địa lý)
      2, Vóc dáng và tâm hồn người làng.
 
 Tôi năm nay 83 tuổi, xa quê hơn nửa đời người và đi nhiều nơi, đến đâu tôi cũng khoe Làng Tôi là một trong những làng đẹp nhất bởi đường ngõ thẳng băng, gọn gàng như bức tranh. Tôi nhớ vào Tết 1956-1957  khi đang học ở trường Trung cấp Nông lâm Trung ương, trên tờ croki khổ 60 x 100 cm, tôi đã vẽ làng ta (khiêm tốn nói rằng) gần đúng 100% tỷ lệ cho từng ngõ, từng nhà…trong đó ghi tên chủ nhà và trong nhà có mấy người, Thú thật xóm ông DẠ (cầu Cừa) chỉ nhớ khoảng 70%. Cái may những năm đó tôi là Uỷ viên hội đồng nhân dân và Trưởng ban Thông tin tuyên truyền xã Hải Phong. xã Hải phong gồm 6 làng: Hà lỗ, Câu nhi, Văn quĩ, Hưng nhơn, An thơ và Phú kinh (hai xã Hải hoà và Hải tân gộp lại), Đoàn tập kết ra Bắc cuối tháng 7-1954 là Đoàn Hải phong do Nguyễn Ngôn người Hà lỗ- Trưởng đoàn), Cái chính là Làng dễ thấy dễ nhớ. Tiếc rằng năm tháng di chuyển nhiều nên thất lạc.
                                    -*******--------*******-------*******-
Vóc dáng làng
    Xưa nay hễ đến vùng đất mới người ta thường chọn : một là sườn đồi núi, hai là ven sông. Ông cha ta chọn ven sông: sông Ô lâu. Nói là ở ven sông nhưng làng ta lại không có sông (có, nhưng chỉ khoảng trên dưới 80 m), có người bảo vì đến sau. Sau trước chưa là vấn đề. Tôi nói đến cùng thời. Đến sau, sao lại có nhiều ruộng canh tác đến vậy. Bình quân đầu người có khi nhiều hơn các làng khác. Chuyện đến sau trươc ta sẽ tìm hiểu thêm.
    Ít nhất cũng phải có một hoặc nhiều cuộc họp giửa những người làng giáp ranh nhau để giăng dây đóng cọc : Hưng nhơn-Văn quĩ-Hoà viện và Hưng nhơn- An thơ.
    Làng ta được xác định: Đông giáp An thơ, tây giáp Văn quĩ, nam giáp Hoà viện và mấy chục mét của sông Ô lâu, bắc là đồng ruộng của làng ta.
    Đứng trước vị trí này, các đại gia làng ta với tầm nhìn rộng, trình độ học vấn cao, đặc biệt kiến thức về thiết kế, kiến trúc và chắc có nhiều kinh nghiệm nên đã có khuôn viên làng như hiện nay.
    Khuôn viên làng hình chữ nhật khoảng (300x1000)m ước bằng 1/10 ruộng canh tác-- diện tich ở / diện tích canh tác tỉ số1/9, có nghĩa là ở một làm chín. Thời gian đã xác định con số này là hợp lý. Chắc chắn ruộng sau Rôộc là đất dành cho dân cư khi con cháu đông lên.
    Cái tầm nhìn  như vậy liệu các chuyên gia, kĩ sư trưởng, kiến trúc sư ở thế kỷ 21 có mấy ai làm được?

    Đi sâu vào thực tế:
    Phía bắc tuy là ruộng của mình, nhưng bị mưa lũ, gió bão đe doạ nên đã đắp con đường Bạng cao rộng trồng cây làm bức tường luỹ che chắn (chọn trồng cây tre là ngà và chủ yếu là cây mưng) tre là ngà cây to cao nhiều gai , rậm, chẳng ai dám chui vào bụi là ngà. Cây mưng chịu nước chịu hạn tốt, rễ to bám rộng, sâu, cành chắc dẻo, lá rậm quanh năm không những giao cho nó  nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho dân má nó còn cung cấp thức ăn thú vi mỗi khi ra lộc non. Tôi còn nhớ câu ca dao quê ta: Đói nghèo rau má rau mưng/Chồng ăn thiếp nhịn xin đừng xa nhau.
    Phía nam giáp Làng Hoà viện (chuyện cách sông và chỉ có một xóm của một làng của Thừa Thiên Huế giáp với hai làng của Quảng trị- sẽ tìm hiểu thêm sau) các vị đã cho đào một rãnh (hói không phải hói, mương chẳng phải mương) vì không lúc nào có nước, chiều rộng trên dưới một mét chắc là để xác định ranh giới, tiếp đó là một luỹ tre và cây bụi, cũng như đường Bạng nhưng không cần lớn và chắc như đường Bạng. Song song với nó, đào một con hói rộng trên dưới 10 mét chạy dọc từ sông Ô lâu lên đến giáp ranh giới làng Văn quĩ rồi chạy thẳng ra vừa tưới nước cho đồng ruộng vừa làm ranh giới giửa hai làng. Đất đào hói đem đắp con đường cái . Giữa con đường cái và bờ hói trồng một luỹ tre rợp bóng quanh năm. Dân làng lập từng bến để giặt giũ sinh hoạt. Có nước chảy quanh làng cây cối tốt tươi, khí hậu ôn hoà
    Phía đông đất liền với làng An thơ, lúc đầu e cũng chỉ đóng cọc phân ranh giới, nhưng khi ngài em thứ ba (thành lập họ Nguyễn: Đức,Hữu,Như có ba anh em ruột) tham gia chinh chiến trở về, triều đình phong sắc tặngVõ Địch Đại Tướng Quân và dụ cho Làng lập miếu thờ, hằng năm đến ngày 16 tháng 6 Âm lịch làng tổ chức cúng giỗ. Tuân lệnh Triều đình, Làng lập miếu thờ ở cạnh biên giới làng An thơ và đặt tên miếu là Tả Thần hoàng, có nghĩa là ông thần trấn thủ đất ở phía tay trái. Nhân dân thường gọi là miếu Ông. Thế là “lãnh địa” làng Hưng nhơn chắc chắn biết chừng nào!
   Khu vực dân cư được chia làm ba xóm: giáp với Văn quĩ là xóm Thượng đến Trung đến Hạ. À lại là chuyện lạ xuất hiện: dòng nước chảy từ hạ lên thượng. Có cái hay là bình độ đất phẳng như tờ giấy nên sáng nước từ sông chảy vào đồng ruộng, chiều nước chảy từ đồng ruộng ra sông. Phong thuỷ ấy tạo cho tâm hồn người dân sống ôn hoà, thuần phác, thuỷ chung.
    Chia ba xóm, mỗi xóm có một đường kiệt (trôn) rộng chạy thẳng ra đồng ruộng và từ đầu làng đến cuối làng cứ cách nhau 25-30m có đường kiệt rộng chừng 3m, hai bên bố tri hai dãy nhà, ngõ thông ra đường kiệt. Mai đây làm biển ngõ, nhà thì “ba mươi giây” là xong.
   Viên đá bí tích ở Càng. Tôi chỉ nhìn được một lần vào ngày giỗ Bà năm 2002 khi cùng đoàn bô lão làng ra cúng. Một viên đá, một bí sử. Ai biết được xin viết bài để nhân dân ta đời đời nhớ ơn.
    Tôi lại chỉ được một lần lên Thượng nguyên cùng các vị bô lão và cán bộ, nhân dân lên cúng đầu năm vào tết Tân tỵ- 2001. Vùng đất này có lẽ lập sau, nhằm trợ giúp cho ngày ba tháng tám. Phải gian khổ lắm, bởi ở vùng độc canh lúa, ắt phải mang gạo lên rừng đổi lấy củ khoai củ sắn.
    Nói vóc dáng làng mà không đề cập đầy đủ về Cái Bến Ngã Ba là một thiếu sót lớn. Bến Ngã Ba, cái bến huyền thoại, bởi đó là nơi hội tụ sắc thái tươi mát của cả Làng. Ngày nào cũng như ngày nào luôn nhộn nhịp trò chuyện râm ran, vui vẻ. Thực thế,ai đang có chuyện lăn tăn gì đó, hễ đến bến cái buồn tiêu tan, tâm hồn được hòa quyện với cái vẽ đẹp thuần khiết của trời mây sông nước tự lúc nào. Bến Ngã Ba, bến thiên nhiên mà như nhân tạo. Đáy cát trắng tinh không một tí bùn, chỗ cạn chỗ sâu: trẻ con vừa tắm vừa vọc cát, con trai đứng nước ngang hông khoe cái bộ ngực nở nang và đôi cánh tay hộ pháp; con gái cố nhấn chìm gần đến cổ thỉnh thoảng nhảy phóc lên cho tia nước phóng ánh hào quang. Cái gì đó khiến người con trai kịp thấy bạn mình quảy đôi thùng gánh nước, lẹ làng vào bờ và đôi tao gióng gọn gàng trên tay với một nụ cười rạng rỡ. Có những “chiếc” tàu ngầm mà cô gái nào đó la lên “chân mình như có bàn tay ai nhầm”… Bến Ngã Ba sáng từng đoàn người gánh nước giặt giũ. Bến Ngã Ba , trưa trâu mẹp; chiều đón khách theo đò dọc vào Huế…Chuyện Bến Ngã Ba làng ta e phải có hằng trăm bài viết cũng chưa đề cập hết. Với tôi nó là huyền thoại mãi mãi là huyền thoại.
     Xin có lời đề nghị các bạn tham gia viết nhiều về vóc dáng Làng. Tôi tạm dừng ở đây. Có chỗ nào sai cho ý kiến, xin chân thành cám ơn
    Như là bức thư ngỏ:
    Đề nghị các bạn viết các phong tục tập quán, những lễ hội cỗ truyền, những ngành nghề và các trò chơi con trẻ…
    Những năm yên bình trước 1945 chúng tôi thường chơi:
   -Đá banh bưởi, Ná bắn chim, Thả diều, Nạp vụ, Đánh căng cù                     Đánh đáo, Đánh bi, Đá kiện, đá hai chân, Trốn tìm, đập chúng (đầu trâu)
    Con gái thì: Nhảy chồng chán, Ô ăn quan, Kẹc khắc, Vụ quay tôm cua, Thẻ ăn 1 ăn 10…
 Tâp thể thì: Đua thuyền (gọi là bơi trải), đua ghe, Đánh bài tới, bài chòi, Đánh cờ quân, kết, cờ chòi, tổ tôm
    Các bài ca dao hò vè, nói lối…rất phong phú.
Làng Lễ : Lên cây nêu ngày 30 đến mồng 7 hạ nêu (Ý nghĩa của cây nêu), Công giáo có kiệu, Làng có năm tổ chức đánh đu, những năm 1943-1944 có đóng kịch, múa…
    Các ngành nghề: Làm ruộng (nhớ cái gian khổ nghề ruộng—khác xa bây giờ), nghề thợ mộc, nghề làm nón, tơi, nghề bắt cá, nghề buôn nón lá vào Huế .
Chúng ta ôn lại những gì đã có trước đây để thấy nét đẹp truyền thống mà ông cha chúng ta đã hun đúc, bởi chúng rất hay, rất khó, rất hấp dẫn. rất bổ ich cho rèn luyện thể chất, thư giản…     
                                          Thân ái chào bà con quê hương.
   Kì sau tiếp ý kiến thứ 2 :
         Vóc dáng và tâm hồn người làng.
                                                                    Nguyễn Thanh Xuân
 Mấy suy nghĩ về
            
Viên Đá miếu Bà Giàng ở làng ta
  
     Bài sự tích Bưng đá ở làng Hưng nhơn do tác giả Hoàng Thị Ái Hoa sưu tầm, nghiên cứu và công bố.Theo tôi nên đổi đầu đề là truyền thuyết Bưng đá, bởi câu chuyện trên chủ yếu là nghe truyền miệng. Khoảng 14-15 tuổi tôi đã nghe kể Bà Giàng bưng Đả, người kể cười và ai cũng rúc rích. Còn chuyện thành đinh thì tôi không được nghe. Mấy câu hỏi cứ đặt ra chưa tìm được lời giải thoả đáng.

   Năm 2001, lần đầu tiên tôi theo đoàn bô lão và dân làng ra Càng làm lễ giỗ Bà, đươc thấy rỏ cả hai viên. Một là đá tự nhiên, một là “cái trống con” làm bằng chất liệu “đá” bột.
   Theo tôi hai viên này không phải nguyên ở đây. Giửa vũng lầy mênh mông (tôi hình dung nơi đó như một đảo nhỏ Giữa Thái bình dương của Hải lăng) tại sao lại có đá mà chỉ có hai viên, một viên là đá tự nhiên, một viên là “một kiệt tác nhân tạo”. Nếu cho rằng những di tích Chàm để lại thì phải khẳng định “thành phố Chàm” bị chìm sâu (cần khai quật), sót một viên không chìm theo. Viên đá nhân tạo và viên đá tự nhiên ai có mặt trước, Rằng viên đá nhân tạo do bà tạo ra nhằm rèn luyện và xác nhận thành đinh thì lại càng không hợp lý, bởỉ dân đinh thì ở trong làng mà tạo viên đá lại ở nơi xa, phư ơng tiện đi lại? Bà ấy nhờ vào kỷ thuật và chất liệu thế nào để làm ra viên đá ấy. Chuyện bà bưng đá là chuyện nói cho vui, lấy chuyện đàn bà tụt váy để…cười, như không tụt váy thì đất ta còn thêm nhiều nữa. Đó là chuyện cuả làng ta, còn chuyện của Mỹ chánh thì khác, họ bị thiệt thòi là do quan…do vân vân. Giá sử nếu quan chia ranh giới và đồng ý cho làng ta bưng từ mốc tranh chấp đi xuống Mỹ chánh, thì dại gì làng ta không lấy lực điền để bưng mà để cho một bà làm? Ta bằng lòng với truyền miệng cho ta viên đá lạ, cho ta một bà dũng cảm dám làm một việc “động trời”mà thời đó người đàn bà bị coi thường. Ai dám đọ sức với người phụ nữ hậu duệ Bà ở làng Hưng nhơn!
    Câu chuyên Bưng đá nói trên, khẳng định là các ngài khai canh thuộc các làng Văn quí, Hưng nhơn, An thơ vào cùng thời, chứ làng ta không thành lập sau. 
    Bây giờ chẳng có chuyện tranh chấp. Uống nước nhớ nguồn, ta tiếp tục thờ Bà  ở biên giới phía bắc địa đầu lãnh thổ nơi cô quạnh, heo hút, trăm ngàn khổ cực lưu truyền lại ngày nay với tấm lòng biết ơn như ông cha chúng ta đã thờ từ xưa.
     Để giữ nguyên di tích, cá nhân tôi xin đề nghị các vị chức sắc nên đưa viên trống đá ra Miếu bà như cũ, nếu miếu được tôn tao có cửa cài then khoá cẩn thận.hơn.Ban đầu tôi cũng có suy nghĩ : có thể có ai vô tình làm vỡ viên đá thì ta mất và trách nhiệm chinh, tội lỗi các vị chức sắc phải chịu. Tôi cũng tin rằng linh vật thiêng liêng đó không ai dám đánh cắp nhưng chắc gì, cảnh giác cũng là điều không thể coi thường. Kính xin các Cụ minh xét.   
                                                    Tháng 12 năm 2011
                                             Nguyễn Thanh Xuân (tuổi 83)
                                                Xóm Hạ làng Hưng nhơn

Trao đổi
Vĩnh hưng, Hưng nhơn, Kẻ vịnh
  
    Năm 1954 tôi đã 25 tuổi, nhưng chưa hề nghe ai nói làng ta là Cái vịnh, chỉ nghe gọi là Kẻ vịnh. Tôi tự hỏi tại sao làng ta là Vĩnh Hưng đã chính thức đổi thành Hưng Nhơn lại có thêm Kẻ Vịnh. Kẻ Vịnh xuất hiện vào thời kỳ nào?. Chưa được xác định. Khi lớn lên tôi thấy viết ở nhà thờ họ Đạo là Giáo xứ Kẻ Vịnh.
    Vị trí nhà thờ đóng tại làng Hưng Nhơn tại sao lại ghi là Kẻ vịnh. Thoáng nghĩ:   liệu có dính dáng gì với Kẻ Văn, bởi nhà thờ ở Văn quĩ cũng ghi Giáo xứ Kẻ văn. Lẽ nào Kẻ (Vịnh, Văn) dành riêng cho những tín đồ Thiên chúa giáo? Cũng không phải, Vì nhà thờ ở làng An Thơ và nhà thờ làng Hòa Viện (cách nhau 100m và 1000m) không thấy ghi là Kẻ Thơ, Kẻ Viện. “Giáo xứ Kẻ vịnh” cũng không thể xem như tên một cửa hàng, tên xí nghiệp thoải mái đặt như hiện nay.
     Trong văn tự đều ghi : Hưng nhơn ngày…chứ không ghi  Kẻ Vịnh ngày…nhưng khi ai đó hỏi ông (bà) ở làng nào thì có người trả lờì là làng Hưng nhơn, có người trả lời là làng Kẻ Vịnh. Kẻ vịnh mặc nhiên trở thành tên gọi khác của làng Hưng nhơn
    Thử tách hai từ : Kẻ và Vịnh.
    Từ Kẻ tiếng gọi dân làng ở miền Bắc, kẻ chợ là nơi đông người như Hà nội xưa…Ở Hải lăng ta có những 50 làng mà chỉ ba làng dùng từ kẻ là Kẻ Diên (có chợ kẻ Diên-thủ phủ Hải lăng) Kẻ Văn và Kẻ Vịnh.
    Có người cho rằng đất quê ta là vùng trũng nên đặt tên có chữ Vịnh. Không phải! Vịnh là vùng biển ăn sâu vào đất liền như vịnh Hạ Long, vịnh Cam ranh…rằng Kẻ là làng, Vịnh là vùng trũng nên gọi là Kẻ vịnh. Theo tôi, chưa phải!
    Tôi nghĩ rằng từ xa xưa Trong Ô Châu Cận lục () Thượng thư Dương văn An biên soạn, hai dịch giả Trịnh Khắc Mạnh , Nguyễn Văn Nguyên, dịch và chú thích thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn-Viện nghiên cứu Hán nôm do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành- Hà nội 1997. trong lời bình trang 232 (bản chữ Hán) Vĩnh Hưng chi chí thượng văn, bản dịch (tiếng Việt) trang 48 dịch tương đối sát là Vĩnh hưng có chí chuộng văn (văn= văn chương chứ không phải văn= nghe). Lại nữa trang 269 (bản chữ Hán) mỹ hóa Vĩnh hưng, nhưng trong bản dịch (tiếng Việt) trang 71 lại dịch là phong hóa Vĩnh hưng. Dịch phong hóa không đúng. Phong hóa là phong tục tập quán và nếp sỗng của một xã hội: phong hóa tân tiến, phong hóa suy đồi… Mỹ hóa thì rỏ ràng không có nghĩa khác. Mỹ là đẹp: mỹ nữ, mỹ mãn, mỹ xảo… Phải chăng Thượng thư thấy ở Vĩnh hưng có nét hào hoa phong nhã, có tư chất về trí tuệ văn chương!.
   Qua bao trăn trở tôi lại thấy: Kẻ có nghĩa là chỉ trống về người: kẻ giàu, kẻ khó, kẻ sang, kẻ hèn… Vịnh có nghĩa là ngâm vịnh; tức cảnh mà đặt thơ: vịnh mùa hè, vịnh cái chổi…Vĩnh hưng, Hưng nhơn hay ngâm thơ xướng họa mà có cái tên Kẻ Vịnh. Kẻ Vịnh là làng hay vịnh thơ, ngâm thơ. “Biệt danh Kẻ vịnh” này tuyệt nhiên không dính với tên ghi Giáo xứ Kẻ vịnh nói trên. Có khi là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tôi thích cái ý “nịnh” làng. Nịnh làng thì ai mà chẳng thích nịnh, nhưng cò có cái cớ chi chăc chắc thì nịnh mới có giá phải không các bạn!.
   Xin tạm dừng ở đây. Chúng ta sẽ trao đổi tiếp khi có thêm tư liệu và suy nghĩ mới.
Nguyễn Thanh Xuân
487 / 2 Đường Cổ nhuế Từ liêm Hà nội

Mấy ý kiến về bài ca dao 10 quả trứng                                                   và nguồn gốc của nó

    Bài ca dao mà Bộ Giáo dục đưa vào chương trình dạy cho con em cả nước học ở cấp Phổ thông Trung học và ghi rỏ là của tỉnh Quảng trị. Đây là một niềm vinh dự lớn của Tỉnh nhà. Tôi thấy: cả tỉnh thì rộng lớn mà trong câu chữ, tiếng nói, đời sống sinh hoạt và nhất là địa danh ghi trong bài tôi hình dung như ở vùng quê tôi, bởi tôi thuộc lòng từ nhỏ.(Tôi sinh năm 1929, khi rời quê hương đi tập kết tôi đã 25 tuổi). Xin trình bày ý kiến dưới đây:

     Bài in trong sách giáo khoa năm 1992 và 2000 như sau:
     Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn/ Tháng khốn tháng nạn/ Đi vay, đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Kẻ Diên/ Mua con gà mái về nuôi/ Hắn đẻ ra mười trứng:
    Một trứng ung
    Hai trứng ung
    Ba  trứng ung
    Bốn trứng ung
    Năm trứng ung
    Sáu trứng ung
    Bảy trứng ung
    Còn lại ba trứng
    Đẻ ra ba con
    Con diều tha
    Con quạ bắt
    Con mặt cắt xơi
    Đừng than phận khó ai ơi
    Còn da lông mọc, còn chồi cây lên .  
     Bài ca dao ở quê tôi như sau : (đã tham khảo và thống nhất với các cụ cao tuổi ở quê).
      Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn/ Đi vay đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Kẻ Diên/ Mua con gà mái về nuôi/ Hắn đẻ ra mười trứng:
Một trứng ung
      Hai trứng ung
Ba trứng ung
Bốn trứng ung
Năm trứng ung
Sáu trứng ung
      Bảy trứng ung
Còn lại ba trứng                              
Nở được ba con                               
Con diều tha                                   
      Con quạ gắp (quắp)                        
Con mặt cắt lôi                               
Lấy chi đâm dánh (nhánh) nảy chồi                   
Khổ như ri chừ đà quá khổ
      Lần hồi cũng qua. (1)
   (1) Những chữ gạch đít là dị biệt với bản trong sách giáo khoa. Đến năm 2000 sách giáo khoa có chữa câu ”Đẻ ra ba con” thành “nở ra ba con”.

      Đi vào nội dung:
                                  A, nguồn gốc:
   1, Về địa lý và đời sống 
   Về mạn cực nam của huyện Hải lăng, tỉnh Quảng trị, men dòng Ô lâu có các làng: Mỹ chánh, Lương điền, Hà lộc, Hà lỗ, Câu nhi, Văn quĩ, Hưng nhơn, An thơ và Phú kinh nay thuộc các xã Hải chánh, Hải Sơn, Hải tân và Hải hòa. Vùng đất này đã đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài vừa văn vừa võ.
       Các làng trên đều có nhánh từ sông chính (Ô lâu) đổ ra đồng ruộng thông thẳng đến Diên sanh (Kẻ Diên), thủ phủ của huyện Hải lăng. Hồi đó việc đi lại chủ yếu là đường thủy. Các làng hạ lưu đi chợ Kẻ Diên bằng ghe thuyền, sáng chôống đi chợ, trưa về.
     Quê tôi là vùng trũng (-8 đến -10 độ so với mặt biển), độc canh lúa nước, hằng năm bị hai con nước đe dọa. Lũ Tiểu mãn tháng tư âm lịch và lũ thu đông kéo dài từ tháng tám đến hết tháng mười. Câu ca “Ông tha mà bà chẳng tha/ Làm cho con nước hai ba tháng mười” đã nói lên cơn lũ dai dẳng và khốc liệt ấy.
     Là vựa lúa của huyện Hải lăng nhưng trước đây chưa có hệ thống tưới tiêu nên có làm mà không có ăn. Đầu tháng tư lúa bắt đầu chín, lũ Tiểu mãn đe dọa. Lúa đang xanh cũng gặt, gặt không kịp nước cuốn trôi. Thế là đi đứt vụ mùa thu hoạch chinh. Quê tôi không có đất trồng hoa màu nên rau không có mà khoai sắn cũng không. Người dân thật vô cùng khốn khổ. Sau tháng ba, tháng tư quả là tháng khốn tháng nạn. Nhớ lại, năm 1999, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu về thăm xã Hải hòa trong trận lũ khủng khiếp đó, thì nhân dân cả nước và bạn bè Quốc tế đều biết đến mảnh đất vùng sâu này.

2, Địa danh
            Tôi chú ý bốn từ “RA CHỢ KẺ DIÊN” Thông thường, đến một nơi nào đó người ta dùng từ: đi, về. Đi đâu? về đâu? Quảng trị quê ta còn dùng nhiều từ khác: vô, ra, lên, xuống, qua, lại ví như vô Sài gòn, ra Hà nội, lên rừng, xuống biển, qua chợ (cách sông)…dĩ nhiên không nói ngược lại là ra Sài gòn, vô Hà nội.
           Ta xem chợ Kẻ Diên là điểm đến là trục tọa độ để xét. Nội hạt huyện Hải lăng: Hải thượng xuống chợ, Hải khê lên chợ, Hải quy vào chợ và các xã từ phía cực nam Hài lăng là ra chợ. Thế “ra chợ kẻ Diên” phải chăng các làng từ chợ vào các làng giáp Thừa Thiên Huế, là cội nguồn xuất xứ bài ca dao này.
            Những ý kiến trên đây, bước đầu tôi tự xác nhận là nơi xuất xứ và cho là đúng bởi trong tỉnh ta, cả trong nước ta không nơi nào có tên chợ Kẻ diên và đời sống tương tự.

                              B, Những dị biệt và cảm nhận:
            1, Phân tich từ dị biệt:
             Sách Văn học 10 xuất bản năm 1992 ghi là: “Còn lại ba trứng/ đẻ ra ba con/ con diều tha/ con quạ bắt/ con mặt cắt xơi/ Đừng than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi cây lên”
            Còn ba trứng đẻ ra ba con thì thật là sai vì gà đẻ trứng, ấp trứng, trứng nở ra gà con chứ gà mẹ không trực tiếp đẻ ra gà con. Còn khi chữa lại : còn ba trứng nở ra ba con nghe có điều chưa chuẩn, vì ba trứng chưa ung chắc gì đã nở được ba con. Đầu óc chị (nhân vật tiêu biểu tác phẩm - NTX) rối bời, chị nghĩ mông lung: 10 trứng ung 7 có lẽ giống gà đẻ kém hay gà trống nhà bên còn quá non, trời nóng nực thế này liệu gà mẹ có chịu ấp cho không, lại những con “mát” tai ác bu đầy ổ, nó có đủ mạnh để đạp vỏ trứng ra không, cho nên những ngày ấp tiếp đó lòng chị như lửa đốt. Có được ba con là hy vọng cuối cùng của chị. Khi nở được ba con (mẹ tròn con vuông) chị mới thở phào nhẹ nhõm. Cái cảm giác hạnh phúc nhờ ở chữ ĐƯỢC. Câu nở ra ba con như là mặc nhiên là phải có ba con, nó không làm cho chị lo lắng hồi hộp, không đúng với tâm trạng khi vừa thực tế chứng kiến bảy trứng ung. Chữ ĐƯỢC thật hay tôi nghĩ không có từ nào thay nổi.
             Khi đã có ba con rồi lại bị tuột khỏi tay nốt. Ở đây tôi chưa phân tích nổi đau buồn của chị mà phân tích các chữ dị biệt trong các câu: Con diều tha (đúng rồi) con quạ gắp, con mặt cắt lôi chứ không phải như sách giáo khoa là con quạ bắt, con mặt cắt xơi. Vì rằng diều quạ mặt cắt là lũ ăn cướp ngày. Diều tha nó cũng tha đến một nơi an toàn nào đó nó mới dám ăn. Quạ từ trên cao rình mò sà xuống gắp (quắp) lấy gà con bay vút lên. Ta hình dung từ bắt là chủ động là ở mặt bằng như bắt gà trong chuồng, bắt tay nhau. Từ quắp mới đúng. Mặt cắt xơi thấy càng không ổn, kẻ cướp phải bay đi vội vã làm gì có thì giờ và tâm trạng thoải mái mà “xơi”. Rảnh rang nhàn rỗi mới ngồi chơi xơi nước hay đài các như các mệ trong hoàng gia triều Nguyễn “xôi không đậu cậu không xơi” Quê Quảng trị không dùng từ “xơi” trong trường hợp này.
            Đặc biệt hai câu cuối nội dung của quê tôi hoàn toàn khác với các bản lưu hành trong sách giáo khoa, những câu nghe thật thương thật thực tế. Khi đã mất cả rồi chị thốt lên câu: Lấy chi đâm nhánh nẩy chồi/ Khổ như ri chừ đà quá khổ…
          
             2, Cảm nhận
       Theo tôi tác giả bài này là một nông dân trung niên, chị (đàn bà không phải đàn ông) năng động không bó tay chịu khổ mà quyết vươn lên trong cuộc sống. Đêm nằm chị vắt óc suy nghĩ: mùa màng thất bát rồi phải làm sao đây và chị đã tìm ra “phương án khả thi” là đi vay tiền mua gà nuôi đẻ. Thức ăn thì nó bươi móóc lúa rơi lúa lép trong rơm rạ, may ra được đàn gà, có rổ trứng: cái ăn cái bán cái trả nợ. Đến đây, kế hoạch nuôi gà không may bị thất bại. Chị (có lẽ một mình) cảm thấy quanh mình bao khó khăn: sưu cao thuế nặng lãi mẹ đẻ lãi con…ba con gà con bé bỏng cũng bị một lũ ác điểu hoành hành. Tại sao? Rỏ ràng trước mắt chị những ba con, cả bầy hung ác ấy. Chị ngồi thừ ra hồi lâu càng nghĩ càng bế tắc căng thẳng, chị bật lên lời kêu “Lấy chi đâm nhánh nẫy chồi”…

             Lời kêu than thốt lên từ miệng người thiếu phụ thật đau xót buồn
tủi não lòng. Trước mắt chị còn một thực tế nghiệt ngã là miếng ăn hằng ngày của cả gia đình, chị ngậm ngùi tự nhũ: vừa an ủi vừa động viên: “lần hồi cũng qua”. Lần hồi cũng qua như đã bao năm cái cực cái khổ cứ đeo đẳng cuộc đời chị, nên “lần hồi cũng qua” là một sự bằng lòng và xác đáng ở thời điểm đó. Trong cái lần hồi của chị tôi thấy có mầm mống vươn lên trong thời gian tới. Tôi tin thế !

             Lại nói về hai câu cuối trong sách giáo khoa “Đừng than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi cây lên”. Rỏ ràng hai câu này là lời khuyên của người ngoài cuộc, mặc dầu có ý tốt là gặp thất bại cũng đừng chán nản, nhưng lời khuyên nghe chung chung, dễ dãi, trơn tuột, vay mượn, khuyên cho ai ơi…Lời khuyên không thấu cái nỗi mất mát đau buồn cụ thể của chị. Mặt khác từ đầu bài cho đến câu “mặt cắt lôi” là đoạn chị kể về cuộc sống, về kế hoạch làm ăn và những điều bất lợi xẩy ra. Nào ! ta đã thấy chị than thở gì đâu, mà ai đó vội khuyên: “Đừng than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc còn chồi cây lên”. Theo tôi, đưa nhân vật thứ hai (người khuyên) vào là thừa và làm giảm đi cái chí khí của người nông dân tiêu biểu trong cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt để giành sự sống… Chỉ một nhân vật như bài ở vùng quê tôi là đủ. Chị ta tự nói lên “lần hồi cũng qua” đó mới chính là lạc quan yêu đời mà nhiều bài viết đã đồng tình. Xin nói thêm: người ngoài khuyên, là khuyên, mới là khả năng chưa biến thành hiện thực, cho nên tôi thấy người trong cuộc nói lên: thua keo này bày keo khác, ấy mới chính là logich của tác phẩm.

            Tôi không dám khẳng định bài ca dao là của Vĩnh hưng, Hưng nhơn làng tôi, nhưng có góp phần thì cũng có lý, bởi địa lý, cuộc sống, nỗi lòng y hệt nhân vật trong tác phẩm “10 quả trứng”
            Xin mời bạn bè đọc vui và cùng trao đổi.
Nguyễn Thanh Xuân
Quê thôn Hưng nhơn Hải hoà Hải lăng Quảng trị
Thường trú 487/2 Đường Cổ nhuế Từ liêm HN
Đt : (04) 62650037--- 0986 465 346







Quê tôi
Nguyễn Thanh Xuân














Ngày xuân 2012



Lời nói đầu

     Ai đã từng sống 70 năm cuối thế kỷ XX, đều có chung một MỆNH đó là mệnh THA PHƯƠNG. Mệnh Tha Phương không phải mệnh Trời mà là mệnh Đất Nước. Mệnh Trời có rủi may. Mệnh Đất Nước, bình đẳng không thiên vị ai, nghĩa là chia đều. Cái được mất mỗi người tự giải thích và tự bằng lòng với chính mình. Tôi không ngoại lệ và bản thân nghĩ, hành động theo “cái giá” đó.
    Rời quê hương, tôi ghi nhiều nhật kí, phần lớn là văn xuôi trong đó “tự tu” như là phải viết. Có một số bài viết dạng như thơ. Tất cả đều thất lạc.Té ra thơ dễ nhớ nên tôi còn nhớ một số bài trước 1975.
    Đến năm 2000, tuổi tôi đã được xếp vào danh sách “cổ lai hy”, tin là mệnh trời không nhòm ngó gì nữa, mệnh đất nước nhờ “ky bo” nên nay có vốn cho vay (không biết tổng) được nhận lãi hằng tháng, thế là thanh thản mang bầu quảy gánh tìm về…Ở quê chưa được mấy năm, có lẽ một ông “bạn” nhớ tôi chưa trả hết Mệnh Trời nên vội kéo tôi tha phương, Ngồi viết những dòng này không là đất quê nhà. Mặc, tôi cứ chép lại chuyện quê mình. Tôi tin chắc chắn rằng những bạn tha phương cũng có tâm trạng như tôi và họ cũng đặt tiêu đề cho những bài viết của mình là : QUÊ TÔI.
     Viết được bài nào tôi chép vào và gửi các bạn cùng trao đổi. tôi tiếp tục sưu tầm và viết (trao đổi trên Email càng thuận tiện).
     Đề nghị các bạn có hòm thư Email cho biết để liên lạc.
     Xin giới thiệu: cháu Nguyễn Như Khoa nhiếp ảnh ở quê có Blogspot thường đưa hình ảnh và bàì viết về quê hương.
    Địa chỉ Email của Khoa: Nguyennhukhoa.blogspot.com.
                                             : Nnhukhoa@gmail.com.

Tháng 1-2012
Nguyễn Thanh Xuân









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét